Trần Đình Sử
Đọc “Truyện Kiều” của đại
thi hào Nguyễn Du, những ai tinh ý đều không bỏ qua hình ảnh khỏa thân của Kiều
khi tắm dưới mắt Thúc Sinh:
“Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”.
Đó là câu thơ tụng ca thân thể người đẹp duy
nhất trong văn học trung đại Việt Nam, không có trong nguyên tác của Thanh Tâm
Tài Nhân. Chữ “tòa thiên nhiên” đã gợi lên một công trình, một kiến tạo, một kiến trúc mà
chỉ có thiên nhiên mới làm được. Một sự thật hiển nhiên nghìn đời mà bây giờ
mới đi vào văn học. Nhưng đó chỉ mới là phần lộ trên mặt nước của một tảng băng
trôi.
Sex
trong “Truyện Kiều” là một phần không tách rời của cô Kiều, người con gái bị
buộc phải làm nghề thanh lâu trong nhiều năm. Tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện”
của Thanh Tâm Tài Nhân vốn thuộc vào một trong 115 tác phẩm có yếu tố tình dục
của tiểu thuyết Trung Quốc. Khi tiếp nhận cốt truyện để sáng tạo lại, Nguyễn Du
đã có ý thức tước bỏ nhiều chi tiết tục tĩu trong nguyên truyện, như “vành
ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề” khá trắng trợn trong nguyên tác, nhưng vì
cuộc đời Kiều như vậy cho nên tính chất, màu sắc sex vẫn bàng bạc trong
khá nhiều trang tác phẩm.
Ngay
câu chuyện Vương Quan kể lại cuộc đời Đạm Tiên đã gợi ra nhiều chi tiết tình
dục.
“Xôn xao
ngoài cửa hiếm gì yến anh”;
“Thuyền
tình vừa ghé đến nơi”.
rồi
tiếng kêu của Kiều:
“Nào người
phượng chạ loan chung
Nào người
tiếc lục tham hồng là ai”.
Người
đọc không thể không nghĩ đến chuyện tình dục. Bản thân chữ “trinh” đã buộc Kiều
rất sớm có ý thức giới hạn tình dục. Khi Kim Trọng mới có ý định nghe tiếng đàn
của Kiều thôi, nàng đã tuyên bố
“Đừng điều
nguyệt nọ hoa kia
Ngoài ra
ai lại tiếc gì với ai”.
Khi
Kim Trọng “có chiều lả lơi”, nàng lại nhắc nhở bằng nhiều chuyện giáo lí, như
để quên đi cảm xúc đang dâng đầy. Người kể chuyện cũng ý thức rất rõ.
Khi
thất thân với Mã Giám Sinh, người kể chuyện đã thốt lên:
“Tiếc thay
một đóa trà my
Con ong đã
tỏ đường đi lối về”.
Còn
Kiều thì nghĩ:
“Biết thân
đến bước lạc loài
Nhị đào
thà bẻ cho người tình chung”
(các
ý này do Nguyễn Du thêm). Tình hình đó buộc người đọc vô tâm nhất cũng phải
nghĩ đến tình dục và chuyện chăn gối. Nhất là trước khi Mã Giám Sinh vào với
Kiều ở nhà trọ, hắn đã tính toán
“Nước vỏ
lựu, máu mào gà
Mượn màu
chiêu tập lại là còn nguyên”
(chi
tiết vỏ lựu, máu mào gà nguyên tác không có) thì chuyện đã đi vào khâu kĩ thuật
làm giả của nghề chăn gối.
Và
khi Mã đã vào, nhà thơ viết:
“Tiệc xuân một giấc mơ
màng”.
hai chữ “tiệc xuân” đã cực tả khoái cảm tình
dục của Mã một cách đầy đủ nhất. Một tên ma cô luống tuổi với cô gái trẻ 15
tuổi thì là bữa tiệc. Chữ “xuân” trong trường hợp này là chỉ tình dục, chuyện
chăn gối, mây mưa. Để giảm bớt sắc thái tình dục, ông nghè Kiều Oánh Mậu sau
này đã bỏ chữ “tiệc”, sửa lại thành “Đêm xuân một giấc mơ màng” mà các bản Kiều
quốc ngữ sau này đều chép theo, khiến người đọc ngỡ là đêm mùa xuân, nhưng lúc
này trong truyện trời đã sang hè.
Còn khi Tú Bà dạy nghề
cho Kiều, với những lời kích động: “Chơi cho liễu chán hoa
chê
Cho lăn
lóc đã cho mê mẩn đời
Khi khóe
hạnh, khi nét ngài
Khi ngâm
ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa”
thì
ai cũng thấy dục tình sôi lên trong câu nói của mụ. Rồi khi khai trương hàng
mới:
“Biết bao
bướm lả ong lơi
Cuộc vui
đầy tháng, trận cười suốt đêm”,
tuy
là ẩn dụ, nhưng cảnh làng chơi nhộn nhịp tràn ra mặt chữ. Cần phải nói ngay
rằng “Truyền Kiều” hoàn toàn không phải là truyện “hối dâm” (dạy việc dâm) như
các nhà nho cổ hũ bài bác. “Truyện Kiều” cũng khác với “Kim Vân Kiều truyện”.
Trong
truyện, Kiều trơ trẽn khẩn khoản đòi Tú Bà dạy cho các ngón tiếp khách “Mẹ ơi, mẹ mau dạy cho con
đi!”, khi
dạy xong thì liền hứa “Vâng con sẽ làm theo lời mẹ”, còn Kiều của Nguyễn Du thì xấu hổ vì
“vỡ lòng
học lấy những nghề nghiệp hay”,
và khi tiếp khách
“Mặc người
gió Sở mưa Tần
Những mình
nào biết có xuân là gì”
(các
ý này cũng không có trong nguyên tác). Ý thức đạo đức của tác giả và của nhân
vật thể hiện song song với các cảnh miêu tả như trên, đó là điều rất khác biệt,
có điều nếu thiếu các chi tiết tình dục đó thì tác phẩm sẽ thiếu đi tính chân
thực và sinh động khi miêu tả con người và cuộc sống nơi lầu xanh.
Cuộc
tình Thúy Kiều và Thúc Sinh thực chất là tình chăn gối. Tuy “trước là trăng gió, sau ra đá vàng”, nhưng vẫn không ngoài
chăn gối. Trong nguyên truyện cũng có nói Kiều tắm, nhưng chỉ Nguyễn Du mới có
sáng kiến miêu tả bức khỏa thân của Kiều. Khi đã tước bỏ các chuyện thưa kiện
mụ Tú để Thúc Sinh được lấy Kiều vốn chiếm nhiều dung lượng, thì các cuộc làm
tình giữa Kiều và Thúc tự nhiên dày lên, nhưng Nguyễn Du hầu như đã lược bỏ cho
truyện được thanh thoát.
Đoạn
Kim Kiều tái hợp là một đoạn giằng co giữa đức hạnh và tình dục, nhưng màu sắc
tính dục vẫn cứ ngầm ẩn đậm đà. Khi gặp lại gia đình, Kiều hết sức mừng rỡ,
song ngại về với gia đình. Ngay tại thảo đường, nàng đã từ chối trở về. Lần thứ
hai khi Vân đề nghị tái hôn, Kiều lại từ chối. Khi buộc phải làm lễ thành hôn
với Kim Trọng, đêm động phòng hoa chúc, Kiều lại từ chối lần thứ ba, để đổi
tình cầm sắt ra tình cầm cờ.
Chàng
Kim là người tình cũ với những ham mê buổi đầu thuở thanh niên, còn Kiều là
người đã quá sức từng trải, đã tự biết mình
“Ong qua
bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy chầy
gió táp mưa sa
Mấy trăng
cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn
Còn chi là
cái hồng nhan”.
Kiều
tự thấy ghê tởm cái thân thể của mình:
“Đã buồn cả ruột mà dơ
cả đời”,
“Có làm chi nữa cái mình
bỏ đi”,
“Người yêu ta xấu với
người
Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau”.
Kiều
tự thấy rất là hổ thẹn, không chút xứng đáng với chàng. Hổ thẹn là cái nét rất
đẹp của Thuý Kiều. Cái việc từ chối chăn gối có vẻ như bất cận nhân tình, nhưng
lại là một biểu hiện đức hạnh cao đẹp của Kiều. Nhưng nói như vậy không có
nghĩa là Kiều đã hết nhu cầu tình ái. Chúng ta hãy đọc lại đoạn tả tiếng đàn
tái hợp mà nàng đã đánh cho Kim Trọng nghe:
Khúc đâu
đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên,
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên,
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.
Nguyên
tiếng đàn này trong nguyên tác tả rất bình thường nhạt nhẽo: “Bèn khua động dây đàn
lạnh, theo lòng nảy khúc. Ban đầu dồn dập hối hả, dần dần êm ái hiền hòa, bỗng
đẹp như én liệng, trong tựa trăng sáng. Càng nghe tai càng lọt, càng ngẫm lòng
càng say, hồn phách bay bổng, tâm hồn phiêu diêu” (Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân
dịch).
Nguyễn
Du đã bỏ hẳn tiếng đàn này để tả cách khác. Nguyên sáu câu thơ ấy lấy nguyên ý
của bốn câu trong bài “Cẩm Sắt” của Lý Thương Ẩn đời Đường. Theo phân tích của
nhà nghiên cứu Pháp F. Sheng, bài thơ hồi tưởng mối tình đã đứt từ hồi thanh
xuân. Nhưng cái lạ của sáu câu này là thấm đẫm cảm xúc tình dục. Đây là khúc
“đầm ấm dương hòa” và “êm ái xuân tình” Trang Chu
mộng bướm mà không biết là mình hóa bướm hay bướm hóa thành Trang Chu. Thân
bướm than Chu hòa hợp không tách ra được.
Thục
Đế hóa thành chim Đỗ Quyên, không biết là than chim Quyên hay than Thục Đế, hai
thân cũng xoắn xuýt không rời, cho nên êm ấm xuân tình chứ không đau buồn như
điển cố Thục Đế kêu khóc vì mất nước. Châu nhỏ duềnh quyên là giọt ngọc nhỏ xuống
duềnh nước có bóng trăng soi, một hình ảnh gợi tình nam nữ. Còn nắng ấm (dương)
làm cho hạt ngọc Lam Điền đông cứng lại, cũng là một cảnh hòa hợp, sinh thành.
Một người một bướm, một người một chim, một giọt ngọc một vụng nước, một ánh
dương soi một sự sinh thành, bốn hình ảnh đều khêu gợi mối dục tình nam nữ một
cách kín đáo, hàm ẩn. Nó dự báo mối tình Kim Kiều rồi sẽ còn có hậu. Khúc đàn
tái hợp của Kiều đã nói lên lòng nàng, vẫn một tấm lòng yêu đời thiết tha,
trong sáng.
Dù
quan điểm đạo đức trong sáng, nhưng Nguyễn Du không hề vì đức hạnh giáo huấn
khắt khe mà bỏ quên yếu tố tình dục, nó là một đặc điểm của thân phận, thân thể
nhân vật, đồng thời cũng là một chất men say của cuộc đời. Chính Nguyễn Du đã
gạt bỏ các chi tiết tình dục dung tục để thêm vào những chi tiết tình dục sinh
động gợi cảm làm cho tác phẩm của ông sống mãi với muôn đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét