Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

DIỄN NÔM BÀI TÂY SƠN HÀNH



“Tây Sơn hành”, bài thơ chữ Hán miêu tả trần trụi cuộc giao hoan giữa Quang Trung và công chúa Ngọc Hân qua trí tưởng tượng của triều thần nhà Lê - Trần Danh Án, có thể coi là bài thơ dâm bạo dạn nhất trong văn học sử Việt Nam. (Tôi dịch trên cơ sở Tín và Đạt; Nhã hay không còn tùy ở từng câu, từng từ trong nguyên tác). (Việt) Trần Danh Án - Tản ông di tập (Ký hiệu A.2157, Thư viện Viện Hán Nôm)




西山行 

時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠,故有此作.
海宇承平二百年,深宮春色鎖嬋娟,嫣紅錦褥人眼獨淺翠花裀蝶夢纏,不是神仙無對偶,可堪芳景忽流連

紗窗寂寞梅酣雪,邃篽離披柳困煙,花事闌珊春已矣
殘英落絮總堪憐,鼕鼕何處城邊鼓,羯塵漫塞長安路
亟夏方旋振葉風,深春忽點催花雨,鬚眉無膽控危城
釵扇將身抵驕虜,天王姊婦上公妃,不比尋常花巷主
尊榮貴寵對天潢,奠聘奩儀優特數,雲水騶從翠綺羅
風流儐相紛紳冑,扇夫轎子儘非常,都人見者呼為父
人羡新郎如一口,妾見新郎墜雙手,衣裳熳爛語侏离
骨相崚嶒皮皺古,頂上高堆張角巾,腿間不著韓信褲
其中一物望巍然,直與四肢峙為五,靜似高僧兀坐忘
動如弁子歌身舞,不言不笑不溫存,大吼一聲烈如虎
千鈞飛蹲據酥胸,怒裂羅裙披雪股,此物誰知解刺人
頡頏插入溫柔戶,嬌花枝上狂鶯揉,狂鶯不為嬌花護
花膜重重裂繒聲,鉛爐片片飛煙縷,牙咬肉顫汗如油
亂搗胡抽做不住,須臾裙帶落新紅,暗點春籌翻幾度
妾身兩孔似連環,瞬息通成一大圈,捲襦點閱忽驚訝
頏摩不值半文錢,黑暗既非前度白,縈紆又改舊時圓
呼鬟拿甕尿一尿,尿水之聲如飛泉,飛泉瀲灧去不返
陽風打落桃花片,桃花嬌怯不勝風,風斂花魂猶覺倦
盈盈柳骨瘦三分,褶褶湘羅寬一半,底事雖然不殺人
暮雨朝雲安熟爛,自從奇苦得奇歡,歡後卻忘舊苦艱
不患漁翁揮棹澀,溶溶桃浪漲平灘,左掬右摸探花髓
鶯不停梭蹀不攔,玉癢香搔失害羞,上摟下扭圓團團
風情蕩漾花心急,恐放東君頃刻間,蠻人老實多高興
不會輕挑只會鑽,浮世青雲如過客,一生幾度托春眠
衾裯樂處無夷夏,痴徇空名誤玉顔,不見錦機脂粉隊
西兵去後幾人還,誰將此為語姊妹,嫁郎及早嫁西山

Phiên âm

TÂY SƠN HÀNH

Thời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác.

Hải vũ thừa bình nhị bách niên,
Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên
Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc,
Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền
Bất thị thần tiên vô đối ngẫu,
Khả kham phương cảnh hốt lưu liên
Sa song tịch mịch mai hàm tuyết,
Thúy ngự ly phi liễu khốn yên
Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ,
Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên
Đông đông hà xứ thành biên cổ,
Yết trần mạn tắc Trường An lộ
Cức hạ phương toàn chấn diệp phong,
Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ
Tu my vô đảm khống nguy thành,
Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ
Thiên vương tỉ phụ thượng công phi,
Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ
Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng,
Điện sính liêm nghi ưu đặc số
Vân thủy sô tùng thúy ỷ la,
Phong lưu tấn tướng phân thân trụ
Phiến phu kiệu tử tận phi thường,
Đô nhân kiến giả hô vi phụ
Nhân tiện tân lang như nhất khẩu,
Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ
Y thường mạn lạn ngữ thù ly,
Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ
Đính thượng cao đôi Trương Giác cân,
Thoái gian bất trước Hàn Tín khố
Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên,
Trực dữ tứ chi trì vi ngũ
Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong,
Động như biền tử ca thân vũ
Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn,
Đại hống nhất thanh liệt như hổ
Thiên quân phi tồn cứ tô hung,
Nộ liệt la quần phi tuyết cổ
Thử vật thùy tri giải thích nhân,
Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ
Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu,
Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ
Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh,
Diên lô phiến phiến phi yên lữ
Nha giảo nhục chiên hãn như du,
Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ
Tu du quần đới lạc tân hồng,
Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ
Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn,
Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên
Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc,
Hàng ma bất trị bán văn tiền
Hắc ám ký phi tiền độ bạch,
Oanh vu hựu cải cựu thời viên
Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu,
Niệu thủy chi thanh như phi tuyền
Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản,
Dương phong đả lạc đào hoa phiến
Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong,
Phong liễm hoa hồn do giác quyện
Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân,
Triệp triệp tương la khoan nhất bán
Để sự tuy nhiên bất sát nhân,
Mộ vũ triều vân an thục lạn
Tự tòng kì khổ đắc kì hoan,
Hoan hậu khước vong cựu khổ gian
Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp,
Dung dung đào lãng trướng bình than
Tả cúc hữu mô thám hoa tủy,
Oanh bất đình thoa điệp bất lan
Ngọc dạng hương tao thất hại tu,
Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn
Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp,
Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian
Man nhân lão thực đa cao hứng,
Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn
Phù thế thanh vân như quá khách,
Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên
Khâm trù lạc xứ vô di hạ,
Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan
Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội,
Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn
Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội,
Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.

Dịch nghĩa:

TÂY SƠN HÀNH

Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này.

Bờ cõi thanh bình đã hai trăm năm
Ở nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặt
Cô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươi
Say giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếc
Không phải là thần tiên không có người sánh đôi
Mà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyến
Song the hiu quạnh, bông mai đượm tuyết
Vườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sương
Mùa hoa đi qua, xuân cũng đã hết
Cánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thương
Tùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thành
Lũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng An
Chưa cuối hè mà đã có gió lay lá
Đương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.
Đấng mày râu không có gan giữ được cung thành
Để bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnh
Con gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng Công
Nào phải bậc chúa hoa tầm thường.
Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộc
Sính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệt
Ngựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vóc
Đám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.
Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùng
Người kinh đô thấy đều gọi là ‘cha’
Ai cũng hâm mộ chú rể
Còn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.
Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹ
Dáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúm
Trên đầu chất cao cái khăn của Trương Giác
Giữa chân không mặc cái quần của Hàn Tín
Ở bên trong, một vật trông rất nguy nga
Cùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọn
Lúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọa
Lúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múa
Chẳng nói chẳng cười chẳng từ tốn
Gầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổ
Nghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơ
Tức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyết
Vật này ai cũng biết là có thể đâm người
Ngúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấm
Bông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vò
Con oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễm
Lớp lớp màng hoa, tiếng xé vải
Mảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khói
Răng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầu
Nện bừa, rút quấy, làm không dừng
Phút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váy
Âm thầm mấy độ xuân qua
Trên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâu
Trong nháy mắt thông thống thành một hốc lớn
Vén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạc
Bị sờ bóp không đáng giá nửa xu
Thâm tím, không còn màu trắng xưa kia
Méo mó, khác rồi khối tròn thưở trước
Gọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cái
Tiếng nước tiểu như dòng thác tuôn
Dòng thác sóng sánh một đi không trở lại
Ngọn gió thổi rụng cánh hoa đào
Hoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gió
Gió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lả
Vóc liễu gày đi ba phần
Áo lụa gấp rộng một nửa
Việc này tuy không đến nỗi chết người
Nhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứ
Từ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùng
Sau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưa
Chẳng lo ông chài khua chèo bị rít
Sóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳng
Vốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoa
Con oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cản
Ngọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùng
Trên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn vo
Cuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hức
Chỉ sợ rời ‘chúa hoa’ trong khoảnh khắc.
Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứng
Chỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốt
Cảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đường
Cả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuân
Thú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợ
Si ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầm
Không thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ sao
Sau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?
Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:
Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.


Bản dịch thơ của TRẦN QUANG ĐỨC
 
Tây Sơn hành

Nước thanh bình hai trăm năm cũ
 
Chốn thâm cung xuân khóa trăng rằm
Lẻ loi chăn gấm mền hồng
Một tà áo thúy mơ mòng bướm hoa
Âu cũng khách quần thoa dan díu
Cảnh xinh tươi chợt níu lòng thơ  
Song the mai tuyết ngẩn ngơ
Vườn thăm thẳm lối, liễu mờ mịt sương
Hoa rệu rạc, màu xuân đã tếch
Cánh phôi phai, dạ khách xót xa
Thùng thùng trống giục ải xa
Nghẽn đường rợ mọi, bụi lòa Tràng An
Mới chớm hạ, gió toan bứt lá
Hẵng còn xuân, mưa đã giục cành
Mày râu mất vía giữ thành
Để cho má phấn gán mình giặc ngông.
Con Thiên tử, Thượng Công phi thiếp
Lọ chúa hoa đeo kiếp tầm thường
Tôn sùng dòng dõi đế vương
Mang theo sính lễ dọn đường vu quy
Xanh gấm vóc, ngựa xe mây nước
Thắm cân đai, đội rước phong lưu
Lạ lùng phu kiệu, đứa hầu
Con dân Kẻ Chợ thấy đều gọi Cha
Người hâm mộ, xuýt xoa như một
Thiếp trông chàng buông tuột đôi tay
Áo lòe loẹt, giọng lạ đời
Nếp da nhăn nhúm, khổ người ngông nghênh
Cao trên thóp vấn khăn Trương Giác
Giữa hai chân không khố Hàn sinh
Bên trong một vật tày đình
Chân tay gộp lại, chềnh ềnh ngũ chi
Khi lặng nhác ông sư nhập định
Lúc động như anh lính múa may
Lầm lì chẳng nói chẳng cười
Gầm vang một tiếng rặt hơi beo hùm
Nghìn cân nặng xổm chồm ngực sữa
Xé váy là tốc giở đùi non
Thọc người, thứ ấy rành đòn
Đâm vào thẳng ngắc cửa son ấm mềm
Tót trên cành, oanh rần búp nõn
Cái oanh cuồng lọ biết thương hoa
Màng hoa lụa xé xác xơ
Lò chì khói tỏa bụi tơ bời bời
Răng nghiến thịt, mồ hôi như mỡ
Dập xằng xiên, hầu dễ đã xong
Váy xiêm chốc điểm giọt hồng
Phút xuân lặng đếm lậu rồng mấy phen
Hai lỗ thiếp như vòng vấn vít
Thoắt thông thành một hốc rất to
Hãi trông xiêm áo giày vò
Nhuốc nhơ chẳng đáng vất cho nửa hào
Nay đen xạm còn đâu trinh bạch
Trước tròn vo giờ đã héo hon
Gọi hầu bưng chậu mang lên

Đái ra như thể suối tuôn ào ào
Gió bức xối cánh đào lả tả
Đào tơ ghê cơn gió dữ dằn
Gió gom hồn vía nhọc nhằn
Mảnh mai vóc liễu ba phân hao gày
Xống nhàu nhĩ, dão tày một nửa
Việc phòng trung dẫu chửa chết người
Mây mưa sớm tối thuộc bài
Cơn đau kỳ lạ hóa vui lạ kỳ
Cuộc vui dứt, quên đi nỗi cực
Chẳng còn lo, chài nhọc mái chèo
Bãi bằng dồn dập sóng đào
Trái nâng phải bóp, lần vào nhị hoa
Bướm mặc oanh, đưa thoi không dứt
Ngọc ngứa hương, đâu biết thẹn thùng
Trên ôm dưới ấp một vòng
Miên man tình gió, nóng lòng dạ hoa
Sợ chúa xuân rời ra khoảnh khắc
Kẻ man di cũng thực hứng tình
Dùi đâm nào biết nhẹ nhàng
Phù sinh mây khách qua đường mà thôi
Giấc xuân ấy, cả đời mấy độ
Thú gối chăn bất kể Kinh – Man
Danh suông lỡ phận hồng nhan
Trông phường hoa điếm phấn son nhục nhằn
Lính Tây đi, mấy thằng trở lại
Bớ ai ơi nhắn với chị em
Lấy chồng, sớm lấy Tây Sơn!



Bản dịch thơ của TRẦN TRỌNG DƯƠNG

Tây Sơn hành

Cõi thanh bình hai trăm năm lẻ
Chốn thâm cung khóa trẻ đương tơ
Gấm tươi phô nét hững hờ
Áo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuân

Khách thần tiên chưa lần sánh mộng
Lòng thơ ngây chợt động tơ vương
Song mai tuyết đọng chán chường
Vườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồ

Hoa đã rụng xuân hồ cũng hết
Xác còn buông mấy nét tơ sương
Thoắt thôi trống động biên cương
Bao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng An

Buổi cuối mùa gió man lay lá
Đương xuân hồng mưa rã nhị hoa
Mày râu trốn hết đâu mà?
Để cho má phấn phải ra gán mình

Thân công chúa thình lình thiếp giặc
Thân ấy đâu phải bậc tầm thường
Hoàng cung quốc sắc thiên hương
Thì thôi sắm lễ tiện đường rước đi

Xe như nước ngựa phi giăng gấm
Phù rể trông cũng thậm xênh xang
Lạ lùng tôi tớ khiêng sang
Lê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoa

Hâm mộ ngắm chàng ta rể quý
Nàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tay
Người đâu trọ trẹ thế này
Da thời nhăn nhúm, dáng rày[2] ngông nghênh

Khăn với áo xông xênh diêm dúa
Giữa hai chân không khố lão Hàn
Bên trong một vật hiên ngang
Ngũ chi sừng sững như đang thượng tòa

Khi lúc lắc tựa là nhảy múa
Chẳng nói năng sấn sổ xông ra
Cọp gầm hùng hổ chu choa
Nghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiên

Xé toạc váy giở miền ngà ngọc
Vật này ôi đã xọc thân hoa
Xăm xoi ngúc ngoắc vào ra
Oanh khùng khục tiếng, hoa dà dà son

Ôi giày xéo hoa don vật vã
Nhụy non tơ rách tã còn đâu
Hơi hùm bốc khói trên đầu
Thịt rung răng nghiến như dầu bôi thân
Chọc bừa đâm quấy tần vần
Giọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voan
Âm thầm bấy, mầu xoan vuột mất
Nhụy thuở nào e ấp xinh xinh
Thoắt thôi hoang hoác thân[3] mình
Nhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rời

Thân vàng ngọc đáng thời nửa cắc
Màu trinh nguyên đã mất vẻ xưa
Ngực non méo mó dật dờ
Buồn cơn đổ xuống một bờ thác tuôn

Thác đã tuôn cũng khôn níu lại
Cánh hoa đào gió tãi nào vun
E rằng gió giật chăng dừng
Hồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoa

Thân liễu yếu ngót ba phần đủ
Xiêm y thay, thít chửa vừa thân
Mây mưa đã giãi phong trần
Tuy chăng mất mạng, cũng dần nát tan

Càng đau lạ lại càng sướng lạ
Sướng này thôi cũng hả đau kia
Chèo khua chẳng ngại gẫy chìa
Sóng đào bát ngát dâng kìa bãi xa

Đôi trái cấm xuýt xoa kia nọ
Oanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêu
Ngọc ngà ngứa ngáy hương phiêu
Trên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùng

Cuộc phong tình bướm hoa háo hức
Chẳng nỡ rời một lúc một giây
Vũ phu hứng động dâng đầy
Vuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chân

Cảnh mây nổi một thân làm khách
Khách qua đường chớ trách mộng xuân
Gối chăn đâu cũng xoay vần
Danh suông để hão, trong ngần vấy nhơ

Đám phấn son Cẩm Cơ chửa đủ
Gã Tây Sơn liệu có quay về
Việc này nói tỏ cho nghe :
Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây !
-------------

[1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười.
[2] Rày: nay
[3] Theo nguyên bản nên dịch là “cửa”, nhưng nay đổi chữ cho nó đỡ dữ.


  Bản dịch của NGUYỄN XUÂN HƯNG

Tây Sơn hành

Nước thanh bình hai trăm năm lẻ
Đây nàng công chúa trẻ cấm cung
Gối êm nệm ấm rèm buông
Mộng hoa mơ bướm tình vương tơ lòng
Phải đâu không có anh hùng
Sánh đôi dệt tấm tình chung với nàng?
Mà cám cảnh hoa vàng bướm vắng
Gái có thì, xuân lặng lẽ trôi…

*
Bỗng đâu trống trận vang trời.
Chiến binh đánh thốc tận nơi kinh thành.
Thôi thôi thế cũng đành thời thế
Tướng với quân chạy lẹ một hơi.
Mày râu mấy lũ người rơm
Tướng quan giá áo túi cơm thôi mà
Mưu quan mới dâng hèn một kế
Gán con vua cho chúa Tây Sơn.
Rình rang rước lễ cầu hôn
Đón dâu phù rể hết hồn dân đen
Phu khiêng kiệu, phu rước đèn
Ngựa xe như nước, người lên như rừng.

*
Chàng rể cũng anh hùng nhất khoảnh.
Cô dâu không dám ngoảnh nhìn ra.
Tiếng nghe trọ trẹ khác ta
Tóc thì quăn tít, mà da đen xì.
Đầu chàng đội khăn gì vàng óng
Quần sơn trang không ống buông ra
Lộ ngay một vật ối a
Như là chân nữa thứ ba của người
Khi tĩnh tại như sư thượng toạ
Khi động lên thiên hạ thất kinh.
Nguời đâu phong cách nhà binh
Như hổ như gấu vồ kinh con mồi.
Nhũ hoa nõn áo đòi xé tuốt
Đùi non tơ váy tuột tơi bời
Dùng luôn chân giữa đâm người
Hiên ngang chọc tới vào nơi cửa trời
Hoa tan nát vì chim điên tới
Chim tưng bừng phơi phới vì hoa.
Mành then lớp lớp mở ra
Khói lò hương bốc, mây xa mưa gần
Mồ hôi túa, mắt môi rậm rật
Điệu chày khua nhịp trận vung vinh.
Váy tơ rớt giọt hồng trinh
Tình xuân thiếu nữ thình lình trôi qua

*
Tự thời nào cửa hoa khép kín
Nay bỗng nhiên mở khuyết cửa người
Còn đâu ngọc thể rạng ngời
Chỉ còn méo mó một nơi giày vò
Gọi a hoàn bưng cho một chậu
Tuôn rào rào nước giữa hai chân
Đầm đìa mấy cuộc trao thân
Mệt nhoài tơ liễu nát tan cây đời
Hoa nào chịu gió trời thấm lạnh
Nụ nào ưng mưa dập bão vầy
Thương thay vóc dáng hao gầy
Rộng thênh áo lụa sau ngày tân hôn.

*
Bệnh ân ái dâm bôn không chết
Nhịp liên miên cũng hết hồn luôn
Chịu thì khổ nỗi lạ khuôn
Sướng thì lại sướng cái cuồng đê mê
Chèo khua mái đâu về đến bến
Nước dâng lên thương mến vô bờ
Vục tay vào chốn không ngờ
Thăm dò hang hốc, lần mò đỉnh cao
Con chim chẳng ngại luồn sâu
Bướm xinh bướm chẳng ngăn đâu bao giờ
Giờ thân ngà non tơ không thẹn
Tay chân ôm ấp vẹn tròn nhau
Ái nồng thắm ân tình sâu
Phong tình bén tiếng bện hơi nhau rồi
Hoang dã chẳng nỡ rời khoảng khắc
Không nề hà đâm nặng chọc nhanh
Đâu cần ve vuốt yến anh
Mây trôi mưa tạnh duyên lành cứ chơi

*
Đời mấy lúc được hồi cực khoái
Thú gối chăn đâu ngại Tây ta
Tình duyên ai biết gần xa
Bao nhiêu người ngọc cũng qua hết thời
Cầm Cơ một đám hồi son phấn
Tây Sơn đi chẳng bận quay về
Chị em ơi có lắng nghe
Lấy chồng cứ lấy một bè Tây Sơn


*
Phụ chép:

Tiểu sử của Trần Danh Án – tác giả của bài Tây Sơn hành:


Trần Danh Án (1755 – 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định – nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm.



Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế.



Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất.

Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên. 

Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét