Lâu nay, dân gian vẫn truyền tụng về toa thuốc bổ có khả năng tăng cường sinh lực
với những cái tên vô cùng hấp dẫn như Nhất dạ lục giao hay Nhất
dạ lục giao sinh ngũ tử, cũng có nơi gọi Lục giao tam dựng và cho
rằng đó là toa thuốc mà vua Minh Mạng đã dùng. Nhưng toa thuốc Minh Mạng thang
thần bí này xuất phát từ đâu, trong hàng chục toa đang lưu truyền toa nào là
gốc, công dụng thực của nó ra sao?
Từ những toa thuốc được
công bố
Theo
nhà nghiên cứu Phan Thuận An, từ trước năm 1975, trên một số báo chí, sách đông
y và y học dân tộc ở miền Nam
đã xuất hiện các công bố về toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử. Nhật
báo Sống (Sài Gòn) số ra ngày 27.4.1968 đã đăng một toa thuốc Nhất
dạ lục giao sinh ngũ tử với 25 vị thuốc bắc.
Đến
năm 1987, lương y Lê Văn Sơn, với sự trợ giúp của lương y Bùi Văn Nông, thuộc
Tổ chẩn trị y học dân tộc - Trạm y tế Tân Đông Hiệp và Tân Bình (Thuận An -
Sông Bé) đã xuất bản ấn phẩm (lưu hành nội bộ) Những phương thuốc bổvà trường
xuân, trích dịch từ sách Vạn bệnh hồi xuân. Trong ấn phẩm này có giới
thiệu một bài thuốc với tiêu đề Toa rượu bổ của vua Minh Mạng dùng. Theo
đó, bài thuốc gồm 22 vị, có hướng dẫn cách ngâm rượu và cách dùng cũng như mô
tả 6 công dụng đặc biệt: đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực, bồi bổ thần
kinh; ngăn ngừa bệnh tật, trị khỏi đau lưng, nhức mỏi và bồi bổ cho sản phụ;
người liệt dương (uống từ 1 - 2 tháng có thể có con); người khản tiếng, nói
không to, uống thuốc nói được to tiếng; thận yếu lâu, bán thân bất toại, đi
đứng không được, uống thuốc rượu này rất tốt; người gần chết, uống vào có thể
sống lại 3 ngày nữa; già lão 60 tuổi, uống vào tăng tuổi thọ rất nhiều, đêm ngủ
không mộng mị, không bị táo bón.
Tuy
ghi là toa rượu bổ của vua Minh Mạng, nhưng các tài liệu trên hoàn toàn không
hề trích dẫn nguồn gốc bài thuốc, có liên quan đến Thái y viện triều Nguyễn hay
không.
Từ
những bài thuốc được công bố này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã đối chiếu với
các tư liệu lịch sử ghi chép về vua Minh Mạng để thực hiện bài viếtToa thuốc bổ
Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử của vua Minh Mạng đăng trên tạp chí Sông
Hương số xuân Tân Mùi (1991).
Nhà vua “quá khỏe”
Theo
tác giả Phan Thuận An, trong số 13 đời vua nhà Nguyễn thì chỉ có 2 vị vua tỏ ra
quan tâm nhiều nhất đến tổ chức, hoạt động và hiệu quả của Thái y viện, đó là
vua Minh Mạng (trị vì từ 1820 - 1840) và vua Tự Đức (trị vì 1847-1883). Hai vua
đều có lý do khác nhau, trong đó vua Tự Đức quan tâm vì thể chất đau yếu bẩm
sinh, tai biến của bệnh đậu mùa biến chứng dẫn đến “bất lực”, rất muốn có con
để truyền ngôi.
Còn
vua Minh Mạng thì lại khác. Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả (NXB Thuận
Hóa, 1995), nhà vua chính thức có 43 phi, tần. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai
biết vua Minh Mạng có bao nhiêu cung nữ, vì sử sách không ghi rõ. Bộ Minh
Mạng chính yếu của Quốc Sử quán triều Nguyễn chỉ tiết lộ, vào tháng giêng
năm Minh Mạng thứ 6 (tháng 2.1825) trong kinh kỳ ít mưa, nhà vua thấy hạn làm
lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo khanh là ông Hoàng Quýnh rằng: “Hai ba năm trở
lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ xem vì đâu mà thế, nhưng chưa tìm ra
nguyên nhân, có lẽ trong thâm cung, cung nữ nhiều nên âm khí uất tắc mà nên vậy
ư? Nay bớt đi, cho ra một trăm người, ngõ hầu có thể trừ thiên tai vậy”. Con số
bớt đi mà đã tới 100 cung nữ, vậy số còn lại trong cung chắc hẳn phải là vài trăm
trở lên.
Trong
cuốn Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn do Nguyễn Viết Kế sưu soạn (NXB
Đà Nẵng, 1996) viết: “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ: một bà
vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai
vặt. Mỗi đêm, vua cho thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5
canh thì danh sách các bà được chuyển giao cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo
dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau này”.
Từ
những so sánh ấy mà người ta đã suy diễn ra rằng “nhà vua cần tăng lực để thỏa
mãn thú vui xác thịt với hàng trăm bà vợ trong cung”.
Cũng
theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, tương truyền một số lương y hiện nay ở Huế
có nghe các vị ngự y tiền bối kể lại rằng vua Minh Mạng đã xài phí sức lực vào
việc giới tính từ rất sớm, ngay từ thời còn là hoàng tử. Một thời gian trước
khi lên ngôi (năm 1820, vua 29 tuổi), ông đã rất yếu về đường sinh dục. Cho nên
sau khi đăng quang, vua đã ra lệnh cho các quan ngự y phải cố gắng giúp mình
lấy lại sức khỏe. Do đó, các ngự y đã “đối chứng lập phương” làm ra thang thuốc
bổ ngâm rượu để nhà vua dùng hằng ngày và thang thuốc này rất hiệu nghiệm. Và
hiệu nghiệm đầu tiên rất cụ thể đó là về mặt sinh lý, nhà vua đã sinh được 78
hoàng tử và 64 hoàng nữ. Hiệu nghiệm thứ hai đó là về mặt tinh thần, trí tuệ.
Lịch sử cho thấy 20 năm trị vì, vua Minh Mạng đã làm được rất nhiều việc tốt
đẹp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội... Có
thể nói thời Minh Mạng là đỉnh cao của vương triều Nguyễn.
Vì
công hiệu của toa thuốc mà nhà vua đã dùng ấy, các quan lớn trong triều đã
“phạm thượng” bí mật sao chép mang về để dùng, rồi sau đó lan truyền trong dân
gian.
Thêm
một cứ liệu nữa khiến người ta quy kết những toa thuốc có tên Nhất dạ lục
giao là toa thuốc của vua Minh mạng, bởi vì tương truyền, chính vua Minh
Mạng đã từng có thơ nhắc đến việc Nhất dạ lục giao tam hữu dựng (một
đêm 6 lần giao hợp, 3 lần có con). Câu thơ này được tác giả Phạm Khắc Hòe, Ngự
tiền văn phòng Đổng lý thời vua Bảo Đại chép trong sách Kể chuyện vua quan
triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa xuất bản năm 1990).
Từ
câu thơ này mà nhiều người cho rằng chính những bài thuốc lưu truyền trong dân
gian với tên gọi như: Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam
dựng, Ngũ giao tam dựng... là toa thuốc của vua Minh Mạng dùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét